22/11/2024 | 06:04 GMT+7, Hà Nội

Điểm nhấn trên thị trường tài chính Việt Nam 2019

Cập nhật lúc: 30/01/2020, 06:00

Theo Bảng xếp hạng phát triển tài chính do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố ngày 8/10/2019, với điểm số 3,00/7, Việt Nam được xếp vị trí thứ 45 trong xếp hạng chung.

So với năm 2018, điểm số của Việt Nam giảm 0,03 điểm, nhưng do các nước khác có điểm số giảm mạnh hơn, Việt Nam vẫn tăng 4 bậc.

Những kết quả và dự báo lạc quan

Dự báo 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 6,8 - 6,9%. Việt Nam thuộc tốp có mức GDP năm 2019 tăng trưởng cao dẫn đầu khu vực và thế giới, được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh, thế và lực không ngừng được củng cố; uy tín quốc tế được nâng lên, bất chấp những khó khăn chung về kinh tế thế giới trong năm 2019.

Việt Nam được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018; năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018; Chỉ số năng lực cạnh tranh ngành du lịch cũng tăng 2 bậc so với năm trước; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN. Chỉ số xếp hạng về an toàn thông tin mạng của Việt Nam tăng 50 bậc, xếp thứ 50/175 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Theo Báo cáo môi trường kinh doanh - Doing business 2020 (DB 2020) toàn cầu vừa được Ngân hàng Thế giới công bố, chỉ số nộp thuế (Paying Taxes, với các tiêu chí như: Số giờ nộp thuế; số lần nộp thuế trong năm; tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; chỉ số sau kê khai (hoàn thuế giá trị gia tăng, thanh/kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp) đã tăng 22 bậc, đưa Việt Nam từ vị trí thứ 131 lên thứ 109 trong tổng số 190 quốc gia được đánh giá.

Nhờ kết quả này, ngành thuế đã vượt chỉ tiêu của Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Theo đó, mục tiêu chỉ số nộp thuế năm 2019 tăng 7 - 10 bậc, tiệm cận mục tiêu đến năm 2021 tăng 30 - 40 bậc.

Theo báo cáo DB 2020 của Ngân hàng Thế giới, phần lớn các chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước đó và được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam. Cụ thể, thời gian nộp thuế giảm 114 giờ (từ 498 xuống 384 giờ); trong đó, 94 giờ giảm là do cải cách, đơn giản hóa tại các thủ tục về khai thuế giá trị gia tăng và 20 giờ giảm là do những cải cách, đơn giản hóa các thủ tục về nộp và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Số lần nộp thuế giảm từ 10 lần năm 2019 xuống còn 6 lần năm 2020. Tổng mức thuế suất (tỷ lệ tổng thuế và đóng góp) giảm 0,2%, từ mức 37,8% năm 2019 xuống còn 37,6% năm 2020.

Thời gian doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị nộp thuế giá trị gia tăng, bao gồm lập bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra theo Tờ khai thuế giá trị gia tăng đã giảm khoảng 90 giờ (từ 212 còn 122 giờ). Thời gian kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 5 lần xuống 1 lần…

Động lực và chất lượng tăng trưởng có bước phát triển, với tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm ước khoảng 33,8% GDP; tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng lên 45,3%; đầu tư tư nhân với nhiều dự án lớn được triển khai mạnh mẽ, theo đúng định hướng tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội. Năng suất lao động tăng 5,9%, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt 42,7%.

Thị trường tài chính và nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định vững chắc trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) dưới 3%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Thị trường tài chính, tiền tệ và tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt và duy trì ổn định phù hợp; dự trữ ngoại hối đạt khoảng 73 tỷ USD. Hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng hạng từ BB - lên BB với triển vọng “tích cực”.

Năm 2019, tổng thu NSNN vượt 3,3% dự toán và là năm thứ hai liên tiếp thu ngân sách trung ương vượt dự toán. Các chỉ tiêu tổng thu, huy động vào ngân sách, thu nội địa... đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm. Bội chi được kiểm soát cả số tuyệt đối và tương đối, với mức bội chi năm 2019 NSNN khoảng 3,4% GDP và năm 2020 ước 3,44% GDP, vượt mục tiêu dưới 3,5% GDP. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, đạt 26,6%. Nhờ kiểm soát tốt, nợ công đã giảm một nửa so với giai đoạn trước và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa (năm 2019, nợ công giảm còn 56,1% GDP so với mức 64,6% GDP năm 2016).

Thị trường vốn tăng trưởng vững chắc

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong 9 tháng đầu năm 2019, thị trường tài chính và dịch vụ tài chính có sự tăng trưởng về cả quy mô và chất lượng.

Trước hết, có thể thấy, thị trường chứng khoán được nhận thêm xung lực tích cực mới nhờ Quốc hội thông qua Luật chứng khoán sửa đổi và Bộ Tài chính trình Đề án thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam được thiết kế theo mô hình “một Sở GDCK, hai sàn GDCK”, với các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025. Theo đó, Sở GDCK sẽ được đặt tại Hà Nội để phù hợp quản lý, điều hành, giám sát, ứng phó với tình hình bất bình thường. Sàn GDCK TP.HCM là nơi tập hợp các DN cổ phần lớn, còn sàn GDCK Hà Nội sẽ là nơi giao dịch cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ... UBCKNN vẫn thuộc Bộ Tài chính như hiện tại, nhưng có bổ sung thêm một số quyền; phát triển các sản phẩm phái sinh mới, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường.

Tính đến ngày 25/9/2019, quy mô thị trường chứng khoán đã đạt khoảng 81% GDP, tăng 13% so với cuối năm 2018, vượt mục tiêu 70% GDP vào năm 2020 đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Thị trường bảo hiểm đạt tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 112,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,2% so cùng kỳ năm 2018; tổng giá trị tài sản đạt 441,2 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2%; đầu tư trở lại nền kinh tế 370 nghìn tỷ đồng, tăng 26,1% so cùng kỳ năm 2018.

Đã có tổng cộng 1,5 nghìn tỷ USD trái phiếu bằng đồng nội tệ được phát hành trong quý III/2019, tăng 0,9% so với quý trước. Sự cải thiện rõ rệt cũng được ghi nhận về tính thanh khoản của thị trường và khối lượng giao dịch tại hầu hết các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực trong năm 2019 so với năm 2018. Đồng thời, thị trường cũng đòi hỏi nhu cầu phải có một cơ chế phòng ngừa rủi ro hoạt động hiệu quả và mạng lưới nhà đầu tư đa dạng cho cả trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.

Trong đó, thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã gia tăng trong quý III/2019. Tính tới cuối tháng 9, Việt Nam có 55,1 tỷ USD trái phiếu đang lưu hành, cao hơn 3,4% so với quý trước và tăng 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái xét theo giá trị đồng nội tệ. Sự gia tăng này chủ yếu là nhờ mức tăng 4% so với quý trước của thị trường trái phiếu chính phủ - lên tới 51 tỷ USD - do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước.

Tỷ lệ tăng trưởng chung của thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ tại Việt Nam bị kiềm chế đôi chút bởi mức sụt giảm 2,8% của thị trường trái phiếu doanh nghiệp so với quý trước, xuống còn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm ngoái, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng 4,2%.

Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành là 155.306 tỷ đồng (số liệu không bao gồm các đợt phát hành riêng lẻ trong 3 tháng đầu năm do HNX không công bố). Trong đó, các ngân hàng thương mại phát hành vẫn là tổ chức phát hành lớn nhất với hơn 75.936 tỷ đồng (chiếm 49%), tiếp đến là các doanh nghiệp bất động sản (47.372 tỷ đồng - chiếm 26,4%), còn lại là các công ty phát triển hạ tầng, công ty chứng khoán và các doanh nghiệp khác.

Tính toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong 9 tháng 2019, lãi suất bình quân là 8,4%/năm và kỳ hạn bình quân là 3,68 năm; trong đó lãi suất và kỳ hạn bình quân của nhóm ngân hàng là 6,82%/năm và 3,82 năm, của nhóm bất động sản là 10,17%/năm và 3,42 năm.

Ngày 24/9/2019 là cột mốc quan trọng đối với thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt, đánh dấu 10 năm xây dựng và phát triển của thị trường. Trải qua quá trình 10 năm hoạt động, thị trường TPCP đã có bước phát triển ấn tượng về quy mô và độ sâu, khẳng định vai trò quan trọng là kênh huy động vốn hiệu quả cho ngân sách nhà nước, đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.

Trên thị trường sơ cấp, trong vòng 10 năm, hơn 1,8 triệu tỷ đồng vốn đã được huy động cho ngân sách nhà nước để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Con số này tương ứng với mức huy động bình quân năm đạt hơn 180 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội năm 2018, 31% tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước năm 2018. Để huy động được lượng vốn hơn 1,8 triệu tỷ đồng này, đã có 1.872 phiên đấu thầu được tổ chức với tỷ lệ huy động thành công bình quân đạt 60 - 70% trên tổng khối lượng gọi thầu.

Lãi suất huy động vốn trên thị trường TPCP đã giảm đáng kể, giúp tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng tiền trả lãi và hỗ trợ tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước. Theo đó, lãi suất huy động vốn trung bình đã giảm từ 4 đến 6%/năm trên tất cả các kỳ hạn.

Đặc biệt, theo Báo cáo Giám sát trái phiếu châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực Đông Á mới nổi (bao gồm Trung Quốc, Hong Kong (Trung Quốc), Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) cho thấy mức tăng trưởng đều đặn trong quý III/2019 bất chấp tình trạng bất ổn thương mại vẫn còn dai dẳng và sự suy giảm kinh tế toàn cầu. Tổng giá trị trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành trên thị trường Đông Á mới nổi đạt 15,2 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 9, cao hơn 3,1% so với thời điểm cuối tháng 6/2019. Tổng số trái phiếu chính phủ bằng đồng nội tệ đang lưu hành trị giá 9,4 nghìn tỷ USD, chiếm 61,8% tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành, trong khi tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp là 5,8 nghìn tỷ USD.

Trong đó, đặc biệt giảm mạnh tại các kỳ hạn 5 năm (giảm từ 10,49%/năm trong 2009 xuống còn 3,55%/năm trong 2019, kỳ hạn 10 năm (giảm từ mức 9,7%/năm trong 2009 xuống còn 4,35%/năm trong năm 2019). Ngược chiều giảm lãi suất, kỳ hạn của các trái phiếu ngày càng tăng. Đến nay, Kho bạc Nhà nước đã phát hành thành công các trái phiếu chính phủ với kỳ hạn lên tới 30 năm. Nhờ sự đa dạng kỳ hạn, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn hơn trên thị trường này và ở góc độ quản lý, điều này cũng giúp giảm áp lực trả nợ trong thời gian ngắn và làm tăng hiệu quả cho đầu tư phát triển của toàn xã hội.

Nếu như năm 2009, TPCP phát hành chỉ có 4 kỳ hạn 2, 3, 5 và dài nhất là 10 năm, trong đó kỳ hạn 5 năm trở lên chỉ chiếm 15% tổng khối lượng phát hành, thì đến 2019 đã có thêm các kỳ hạn dài 15 năm, 20 năm và 30 năm, trong đó kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên đã chiếm đến 90% tổng khối lượng phát hành. Trên thị trường thứ cấp, giao dịch TPCP không ngừng tăng về quy mô và độ sâu, tiệm cận với các nước có thị trường TPCP phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Thanh khoản trái phiếu năm 2019 đạt mức hơn 9 nghìn tỷ đồng/phiên, gấp gần 24 lần so với năm 2009. Giá trị giao dịch Repos theo đó cũng tăng trưởng mạnh mẽ từ quy mô khiêm tốn với tỷ trọng 6,5% trên tổng giá trị giao dịch năm 2009 lên mức 55% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường năm 2019.

Thị trường TPCP liên tục được bổ sung các sản phẩm trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, đáp ứng được nhu cầu đầu tư đa dạng của thị trường. Trên thị trường sơ cấp, không chỉ có sản phẩm cơ bản là trái phiếu Trả lãi định kỳ, mà còn có các sản phẩm trái phiếu Không trả lãi, trái phiếu có Kỳ trả lãi dài. Trên thị trường thứ cấp, ngoài hai sản phẩm cơ bản là Outright và Repos, trước xu thế phát triển mạnh của giao dịch Repos, vào cuối năm 2018, đã có thêm 3 sản phẩm Repos nữa gồm Vay trái phiếu, Bán kết hợp mua lại, Vay để bán được giới thiệu ra thị trường với kỳ vọng thanh khoản của thị trường sẽ ngày càng bứt phá, thu hút thêm nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài.

Triển vọng sáng sủa

Hạ tầng công nghệ phục vụ thị trường như hệ thống đấu thầu, hệ thống giao dịch cũng liên tục được HNX đầu tư, nâng cấp theo hướng bám sát nhu cầu và hỗ trợ tốt cho các hoạt động đa dạng của thị trường trên một nền tảng công nghệ hiện đại. Hệ thống đấu thầu điện tử trực tuyến (E.ABS), hệ thống giao dịch từ xa, hệ thống giao dịch trực tuyến TPCP (E-BTS) trên nền internet đã đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin và giao dịch ngày càng hiện đại của các thành viên thị trường và nhà đầu tư, giúp họ ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn, tiết kiệm đáng kể chi phí và thời gian giao dịch.

Hệ thống chỉ báo thị trường TPCP cũng được chú trọng phát triển. Khởi đầu với đường cong lợi suất ra mắt tháng 3/2013, đến tháng 1/2015, bộ chỉ số trái phiếu (Bond indices) với nhiều kỳ hạn khác nhau tiếp tục được đưa vào sử dụng. Đến nay, 2 hệ thống chỉ báo này đều phát huy vai trò tích cực trong việc định lãi suất tham chiếu và định giá trái phiếu, giúp cho nhà đầu tư và thành viên thị trường thuận lợi hơn trong việc giao dịch trái phiếu trên thị trường.

Hai hãng thông tin quốc tế Bloomberg và Reuters đều đã cung cấp thông tin về hệ thống chỉ báo này dưới tên gọi “VN Bond Yield Curve” và “VN Bond Index” cho các nhà đầu tư quốc tế. Liên tục trong các năm 2013, 2014, 2018, 2019 thị trường TPCP Việt Nam được Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đánh giá là một trong các thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất khu vực Đông Á.

Năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.

Việt Nam hiện đang được đưa vào danh sách giám sát chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ theo quy định của Hoa Kỳ, với 3 tiêu chí: Thứ nhất, có thặng dư thương mại với phía Hoa Kỳ trên 20 tỷ USD; thứ hai, có thặng dư cán cân vãng lai trên 2% GDP; thứ ba, có can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong giai đoạn 12 tháng.

Việt Nam thỏa mãn 2 tiêu chí đầu của Hoa Kỳ, còn về tiêu chí thứ ba Việt Nam đạt thấp hơn ngưỡng phía Hoa Kỳ đưa ra. Việt Nam cũng được Hoa Kỳ khẳng định không thực hiện việc thao túng tiền tệ, không dùng chính sách tiền tệ, tỷ giá để tạo cạnh tranh, tạo lợi thế thương mại một cách không công bằng. Những khuyến nghị chính sách của Bộ Tài chính Hoa Kỳ đưa ra cho Việt Nam cũng nằm trong lộ trình mà Chính phủ đang chỉ đạo các bộ, ngành, trong đó có Ngân hàng Nhà nước, triển khai và hoàn thiện các chính sách và các cơ chế điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.

Trên thị trường liên ngân hàng, dù có xu hướng giảm, nhưng lãi suất thị trường 1 vẫn neo cao. Thanh khoản dồi dào trên liên ngân hàng tiếp tục được duy trì, trong khi NHNN bơm ròng 18 nghìn tỷ đồng qua thị trường mở và nguồn VND gia tăng khi NHNN tiếp tục mua vào lượng lớn ngoại tệ trong tháng 10/2019.

Lãi suất trên liên ngân hàng dao động trong vùng thấp nhất trong vòng 1 năm trở lại đây và chốt tháng 10/2019 ở mức 1,85%/năm với kỳ hạn qua đêm, 2,13%/năm với kỳ hạn 1 tuần, thấp hơn cuối tháng 9/2019 là 3bps và 46bps. Mặc dù các lãi suất điều hành của NHNN được giảm 25bps vào tháng 9/2019, nhưng hiện tại vẫn ở mức khá cao so với các nước khác, lãi suất OMO là 4,5%/năm và tín phiếu là 2,25%/năm. Lãi suất tín phiếu đã cao hơn lãi suất qua đêm trên thị trường trong tháng qua.

NHNN đã chuyển từ hút ròng 85 nghìn tỷ đồng trong tháng 9/2019 sang bơm ròng vào tháng 10/2019. Nhờ tỷ giá và lạm phát đang được kiểm soát tốt, khả năng lãi suất điều hành (tín phiếu) có thể sẽ được giảm thêm 25bps trong thời gian còn lại của năm 2019. Hầu hết lãi suất huy động các ngân hàng đều đi ngang, một số NHTM có thị phần nhỏ tiếp tục huy động kỳ hạn trên 13 tháng ở mức lãi suất 8,2 - 8,5%/năm, hoặc đẩy mạnh huy động qua chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn 24 tháng trở lên với lãi suất 9 - 10%/năm. Mức lãi suất huy động phổ biến trong khoảng 4,1 - 5,5%/năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,3 - 7,8%/năm với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 6,4 - 8,1%/năm với kỳ hạn 12, 13 tháng.

Về triển vọng, để phát triển TTTC Việt Nam theo hướng hiện đại, lành mạnh, với cơ cấu hợp lý, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô cho tới năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần tiếp tục tập trung hiện đại hóa, nâng cao năng lực tài chính và hoạt động của khu vực ngân hàng; đa dạng hóa các công cụ và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ, nhất là các công cụ phái sinh; đa dạng hóa các thành viên tham gia thị trường và bảo đảm các TCTD có đủ vốn tự có theo chuẩn mực vốn của Basel II. Mặt khác cần nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các NHTM, phù hợp chuẩn mực và thông lệ quốc tế; nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng về thông tin và thanh toán của hệ thống ngân hàng thông qua áp dụng công nghệ số, công nghệ tài chính (Fintech); hình thành thị trường mua bán nợ. Đồng thời, mở rộng và phát triển thị trường vốn theo chiều sâu; phát triển cơ sở nhà đầu tư có tổ chức; tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý các quy định hướng dẫn việc triển khai các loại hình quỹ đầu tư chuyên biệt; Thúc đẩy thị trường trái phiếu DN và đa dạng hóa cấu trúc sản phẩm trên thị trường phái sinh.

Đặc biệt, nâng cao năng lực giám sát TTTC, tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý, giám sát tài chính, như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia…, ưu tiên thiết lập các cơ chế giám sát, cảnh báo sớm, đảm bảo TTTC hoạt động ổn định và lành mạnh; trong đó có cơ chế giám sát hoạt động của NHTM thông qua các công cụ macro-prudential và cách thức quản lý dựa trên rủi ro. Coi trọng bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa hệ thống tín dụng và thị trường vốn./.