21/11/2024 | 18:50 GMT+7, Hà Nội

Mã số BHXH cũng chính là mã định danh y tế

Cập nhật lúc: 02/06/2020, 06:40

Mã số BHXH sẽ được sử dụng làm mã định danh y tế để xác định danh tính một cá nhân tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mỗi người dân chỉ được cấp một mã định danh y tế duy nhất và mỗi mã định danh y tế...

Mã số BHXH sẽ được sử dụng làm mã định danh y tế để xác định danh tính một cá nhân tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mỗi người dân chỉ được cấp một mã định danh y tế duy nhất và mỗi mã định danh y tế chỉ được cấp cho một người dân và tồn tại suốt đời.

Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 2153/QĐ-BYT về Quy chế xác lập, sử dụng và quản lý mã định danh y tế. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2020 và thay thế Quyết định 4376/QĐ-BYT ngày 24/9/2019.

Theo đó, mã số BHXH sẽ được sử dụng làm mã định danh y tế để xác định danh tính một cá nhân tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mỗi người dân chỉ được cấp một mã định danh y tế duy nhất và mỗi mã định danh y tế chỉ được cấp cho một người dân và tồn tại suốt đời. Các cơ sở y tế sử dụng mã định danh y tế để liên kết thông tin sức khỏe của người dân với Bệnh án điện tử, Hồ sơ sức khỏe điện tử và các phần mềm thông tin y tế khác. Mã định danh y tế có những đặc tính cơ bản: sẵn sàng, nhận diện, liên thông, ánh xạ và xác thực.


Mã số BHXH sẽ được sử dụng làm mã định danh y tế để xác định danh tính một cá nhân tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe (ảnh: minh họa)

Trong thời gian qua, những cải cách quan trọng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đã giúp các nước trong khu vực khắc phục một số điểm yếu, như việc tăng cường áp dụng các hệ thống thông tin kỹ thuật số, cụ thể là hồ sơ sức khỏe điện tử (EHR) và các phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực y tế. 

Theo WHO, có khoảng 47% các quốc gia hiện có hệ thống EHR, trong khi có khoảng 83% các quốc gia đã áp dụng ít nhất một ứng dụng về sức khỏe di động (mHealth). Chính những cải tiến này đã kích hoạt các hệ thống nhận dạng độc lập hoặc nhận dạng chức năng của ngành y tế (stand-alone, or functional, identification systems), cụ thể như số và/hoặc thẻ nhận dạng bệnh nhân duy nhất (unique patient ID number) do Bộ Y tế hoặc Bảo hiểm y tế quốc gia tạo ra. 

Các hệ thống nhận dạng này đã cung cấp các tiện ích đầy tiềm năng cho cả người bệnh, các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế và cả các bộ, ngành có liên quan khác. Bằng cách cho phép xác định và xác thực bệnh nhân bảo mật và chính xác và cho phép trao đổi thông tin, sẽ làm tăng hiệu quả quản lý người bệnh, cải thiện chất lượng điều trị, giảm gánh nặng hành chính cho người bệnh, tạo điều kiện tiếp cận bảo hiểm tốt hơn, giảm gian lận và cải thiện việc thu thập dữ liệu.

Tuy nhiên, các hệ thống định danh chức năng này, chẳng hạn như thẻ định danh y tế, có thể gây tốn kém khi vận hành và việc phổ biến mã định danh và cơ sở dữ liệu cụ thể theo ngành có thể không tương thích giữa các ngành với nhau và gây gánh nặng cho người dùng.

Thay vì tạo ra một hệ thống nhận dạng dành riêng cho y tế (mã định danh chức năng), một số quốc gia trong khu vực đã chọn hệ thống nhận dạng nền tảng (mã định danh nền tảng) hiện có sẵn của quốc gia đó, như số đăng ký dân số (population registers), số định danh duy nhất (Unique Identification Numbers - UIN) hoặc thẻ định danh quốc gia (National ID - NID), làm nền tảng để nhận dạng người bệnh, xác minh và xác thực. Ưu điểm của mã định danh nền tảng là tận dụng một hệ thống cơ sở dữ liệu nền tảng có sẵn có thể tạo ra những lợi ích bổ sung ngoài những lợi ích được cung cấp bởi một hệ thống chức năng của lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ.

Bằng cách hợp lý hóa quản lý nhận dạng tổng thể và loại bỏ chi phí cho mã định danh chức năng trong lĩnh vực y tế, việc tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu nền tảng có sẵn vào ngành y tế có thể cải thiện công tác quản lý bệnh nhân, quản trị bảo hiểm và thu thập dữ liệu, thậm chí còn nhiều hơn một hệ thống mã định danh chức năng. 

Việc sử dụng một mã định danh nền tảng để chia sẻ dữ liệu cho các hệ thống khác nhau trong cùng một quốc gia, ví dụ, mã định danh theo số đăng ký hộ tịch, thống kê dân số... có thể tạo điều kiện, tổng hợp dữ liệu dễ dàng hơn, có thể được sử dụng để lập kế hoạch và nghiên cứu, như ở Hàn Quốc. 

Tương tự, ở một quốc gia nơi nhiều cơ quan sử dụng mã định danh chung giúp dễ dàng xác minh hoặc kiểm tra chéo các thuộc tính của người bệnh trên các hệ thống cho nhiều mục đích khác nhau, như ở Thái Lan, việc sử dụng mã định danh quốc gia trong lĩnh vực BHYT cho phép tạo ra và sao chép nhanh chóng đăng ký chăm sóc sức khỏe trên toàn quốc.