20/04/2024 | 16:14 GMT+7, Hà Nội

BR-VT: Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển

Cập nhật lúc: 20/11/2022, 18:45

Thời gian qua, việc triển khai thành công Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ về giải pháp thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, tỉnh BR-VT đã thu hút nhiều doanh nghiệp...

Nhiều năm trở lại đây, Đảng, Chính phủ đã có sự quan tâm, chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT), nhiều chính sách, chương trình được ban hành để khuyến khích tập trung nguồn lực phát triển ngành CNHT, như: Nghị định số 111/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển CNHT; Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

BR-VT: Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triểnCần có thêm những cơ chế, chính sách để CNHT phát triển
BR-VT: Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển 

Mới đây nhất là Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT với nhiều chính sách mới, được kỳ vọng sẽ tạo ra sự kích thích mạnh mẽ cho công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo trong thời gian tới…

Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thời gian qua, việc triển khai Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ về giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT, tỉnh đã thu hút nhiều doanh nghiệp có năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo báo cáo từ Sở Công thương tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, toàn tỉnh có gần 80 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT với đa dạng các ngành nghề như linh kiện điện tử, đóng sửa tàu thuyền, linh kiện máy móc, hóa chất, cơ khí… Tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm gần 88% trong sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh, trừ dầu khí. Riêng với CNHT, tính đến cuối năm 2021 chiếm khoảng 50% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, tương đương 150 ngàn tỷ đồng.

Đơn cử như chi nhánh công ty TNHH Novas EZ (KCN B1 Conac, TX. Phú Mỹ) đã trở thành một trong những đối tác chiến lược của Tập đoàn Samsung. Ông Jang Jae Hyun, Tổng giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH Novas EZ cho biết, các sản phẩm của công ty được sản xuất trên dây chuyền hiện đại, chủ yếu cung cấp cho Tập đoàn Samsung.

Tuy nhiên, số doanh nghiệp nội tham gia chuỗi cung ứng như Công ty TNHH Novas EZ chưa nhiều, việc phát triển CNHT tại Bà Rịa – Vũng Tàu còn chậm, phụ thuộc rất nhiều từ các doanh nghiệp nước ngoài, trong tổng số các doanh nghiệp CNHT thì có đến hơn 80% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Lý giải về vấn đề này, Bà Bùi Thu Thuỷ - Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận định, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua hàng từ các doanh nghiệp trong nước để tiết giảm chi phí và giảm tác động của đứt gãy chuỗi cung ứng. Song quy chuẩn, tiêu chuẩn của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cao, trong khi doanh nghiệp CNHT trong nước lại chưa đáp ứng được.

Việc phát triển CNHT tại Bà Rịa - Vũng Tàu còn chậm, phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp nước ngoài
Việc phát triển CNHT tại Bà Rịa - Vũng Tàu còn chậm, phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp nước ngoài

Nguyên nhân khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu chuỗi cung ứng là bởi, đa số các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô vốn mỏng và năng lực cạnh tranh thấp. 

Trong khi đó, để đầu tư máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất của những tập đoàn toàn cầu, doanh nghiệp CNHT có khi phải cần đến khoản vốn đầu tư máy móc, thiết bị lên tới 5-10 tỉ USD. Đây thực sự là “quá sức” với nhiều doanh nghiệp CNHT của Việt Nam.

“Năng lực ngành CNHT của Việt Nam vẫn được đánh giá hạn chế. Sản xuất công nghiệp của Việt Nam còn phụ thuộc lớn vào các nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện đầu vào nhập khẩu. Khả năng tự cung ứng các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ từ các doanh nghiệp trong nước chiếm tỉ lệ thấp” - ông Bùi Trung Nghĩa - Phó Chủ tịch VCCI cho biết.

Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp CNHT, đại diện VCCI cho rằng, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục có những chính sách nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp CNHT thông qua cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và chính sách phát triển CNHT theo hướng minh bạch, thuận lợi để doanh nghiệp yên tâm hơn khi đầu tư vào lĩnh vực này. Cùng với đó, có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp CNHT tiếp cận tài chính hiệu quả để đầu tư dây chuyền công nghệ, máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất.

Bên cạnh những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp CNHT cũng cần chủ động tìm kiếm giải pháp, tăng cường kết nối, tập trung đầu tư để từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất, nâng cấp máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tập đoàn toàn cầu.

Về phía tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ông Nguyễn Văn Đồng, Giám đốc Sở Công Thương cho biết, thực hiện Nghị quyết số 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển, tỉnh đã triển khai nhiều kế hoạch, phương án, trong phát triển CNHT. Đơn cử như để thu hút các dự án sản xuất sản phẩm CNHT có trọng điểm, tháng 10/2021, UBND tỉnh đã ban hành quyết định danh mục sản phẩm ưu tiên thu hút đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó có các sản phẩm công nghiệp của nhóm cơ khí chế tạo, hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao, CNHT...

“Những năm tiếp theo, cụ thể là 5 năm tới, Bà Rịa-Vũng Tàu đặt mục tiêu sẽ trở thành tỉnh kiểu mẫu về phát triển công nghiệp gắn bảo vệ môi trường, phát triển CNHT có chiều sâu. Đặc biệt, tỉnh chú trọng phát triển CNHT chất lượng cao. Để đạt được mục tiêu này, tỉnh xác định tiếp tục lựa chọn các dự án công nghiệp lớn, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, không thâm dụng lao động”, ông Nguyễn Văn Đồng nhấn mạnh.

Tính đến hết tháng 8/2022,cả nước mới có 5.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, chiếm 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo việc làm cho hơn 600.000 lao động với doanh thu sản xuất kinh doanh đạt hơn 900.000 tỉ đồng, tương đương 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo.

Về khả năng tự cung ứng các sản phẩmCNHTtừ các doanh nghiệp trong nước chiếm tỉ lệ còn thấp, VCCI nêu ra những con số cụ thể đối với ngành điện tử gia dụng, tỉ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp Việt Nam chiếm khoảng 30-35% nhu cầu linh kiện; điện tử phục vụ các ngành ôtô - xe máy đạt khoảng 40%.

Tuy nhiên, ở những ngành công nghệ cao như ngành điện tử tin học, viễn thông; điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao, tỉ lệ nội địa hoá lần lượt là 15% và 5% và phần lớn là các linh kiện nội địa hoá đều do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong nước cung cấp.

Nguồn: https://kinhtemoitruong.vn/br-vt-thao-go-kho-khan-thuc-day-nganh-cong-nghiep-ho-tro-phat-trien-73603.html