Những loại thuốc gây hại cho thận
Cập nhật lúc: 17/03/2016, 06:09
Cập nhật lúc: 17/03/2016, 06:09
Các thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid như: streptomycin, neomycin, tobramycin, gentamycin gây suy thận sau khi dùng 7 - 10 ngày với tỷ lệ 10% các ca bệnh.
Streptomycin và neomycin gây nhiễm độc thận nặng, cho nên hiện nay, neomycin không dùng dạng tiêm và rất hiếm khi dùng dạng uống, streptomycin chỉ dùng trong điều trị lao.
Gentamycin và tobramycin gây nhiễm độc thận trung bình, tuy nhiên, gentamycin lại có tần suất gây nhiễm độc thận cao nhất do hay được sử dụng và bị lạm dụng nhiều.
Ngoài ra, các kháng sinh nhóm betalactam kể cả cephalosporin, vancomycin, miocyclin, erythromycin; các thuốc ức chế tiết acid dịch vi như cemitidin; thuốc chữa động kinh như phenobacbital; các thuốc chống rối loạn chuyển hóa lipid như clofibrat… có thể gây dị ứng miễn dịch ở ống thận, mô kẽ vì các tế bào ở vị trí này rất dễ nhạy cảm, có thể dị ứng với các thuốc nói trên mà không lệ thuộc vào liều.
Tuy tai biến kiểu này chỉ xảy ra ở những người có cơ địa dị ứng nên tần suất thấp nhưng rất khó đề phòng vì không thể biết trước.
Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin.
Chất carbenoxolone là dẫn chất theo con đường sinh tổng hợp của acid glycyrrhizinic thông qua tác dụng ức chế enzym11-beta-hydroxyl-steroid dehydrogenase.
Sự ức chế này làm tăng nồng độ corticosteroid nội sinh trong nội bào, gây co mạch và ứ natri làm giảm chức năng bài tiết của thận và gây tăng huyết áp một cách gián tiếp.
Các thuốc chống tăng huyết áp thuộc nhóm kháng thụ thể AT1 như: irbesartan, valsartan, losartan… có thể gây suy chức năng thận và suy chức năng gan. Do hậu quả của việc ức chế hệ thống Renin-Angiotensin nên đã có báo cáo về những thay đổi chức năng thận, bao gồm suy thận ở người mẫn cảm.
Cho dù những thay đổi này có thể hồi phục được khi ngừng thuốc, nhưng vì bệnh nhân tăng huyết áp thì thường phải dùng thuốc lâu dài và dùng thuốc ở nhà, nếu không được theo dõi kiểm tra chức năng thận thường xuyên thì rất có thể gây hậu quả nghiêm trọng.
Ở người bệnh suy tim sung huyết, việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận, gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết.
Các thuốc điều trị giảm mỡ máu như fibrate, statin cũng có thể gây hại thận rất mạnh do thuốc có thể gây ly giải cơ vân khiến cho các bắp cơ toàn thân đau nhức và yếu sức do viêm và tổn thương cơ ở mức độ rất nghiêm trọng.
Hai thận làm việc quá mức để cố gắng loại bỏ lượng cơ phân huỷ do dùng statin. Cơ bị ly giải phóng thích các protein vào máu. Những protein này sau đó sẽ tập trung ở thận và gây tổn thương thận, cuối cùng dẫn đến suy thận và có thể gây tử vong.
Cũng may là biến chứng ly giải cơ vân rất hiếm gặp, chỉ xảy ra với tỉ lệ dưới 1/10.000.
Các thuốc ức chế men chuyển (captopril, quinapril, enalapril, lisinopril...) gây giảm tưới máu thận và suy thận cấp chức năng. Vì vậy, không chỉ định ức chế men chuyển trong tăng huyết áp do hẹp động mạch thận.
Các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. Các thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và tiểu tiện không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường.
Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Vì luôn luôn có nguy cơ “thuốc hại thận”, nên việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận) để tránh những nguy hiểm cho thận, bảo vệ sức khỏe của chính mình./.
19:16, 19/11/2016
12:26, 19/11/2016
07:10, 01/10/2016
06:44, 15/03/2016
11:11, 08/03/2016
12:38, 29/02/2016
07:30, 15/01/2016